Nhà máy thủy điện Đăkmi 4 chuyển dòng từ sông Vu Gia sang sông Thu Bồn: Lãnh đạo và các ngành chức năng ở Quảng Nam nói gì?

Thứ sáu, 12/06/2009 00:00

(Cadn.com.vn) - Trong mấy ngày vừa qua, nhiều tờ báo đã phản ảnh ý kiến của chính quyền và các ngành chức năng ở TP Đà Nẵng về những hậu quả sẽ xảy ra xung quanh việc Nhà máy thủy điện (NMTĐ) ĐăkMi 4 chuyển dòng từ sông Vu Gia sang sông Thu Bồn. Về vấn đề này, ý kiến của chính quyền và các ngành chức năng tại tỉnh Quảng Nam ra sao? Mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Sông Vu Gia “cạn nước” đã được cảnh báo từ trước

Vụ NMTĐ ĐăkMi 4 đã cho chuyển dòng nước cơ bản sông ĐăkMi về sông Thu Bồn để phát điện, sau đó mới chảy về sông Vu Gia dẫn đến một vùng rộng lớn như Đà Nẵng, Hội An, Điện Bàn (Quảng Nam) dùng nước trực tiếp từ sông Vu Gia sẽ “chết khát” đã được tổ chức ADB “cảnh báo” từ trước.

Dự án NMTĐ ĐakMi 4 (có công suất 190MW, tổng mức đầu tư 4.600 tỷ đồng, được Tổng Cty Đầu tư phát triển đô thị và KCN Việt Nam (IDICO)- Bộ Xây dựng khởi công cuối tháng 4-2007 tại H. Phước Sơn (Quảng Nam).

Tại sao NMTĐ ĐăkMi 4 không hoạt động theo nguyên tắc trả nước về sông cũ như 6 NMTĐ khác ở thượng lưu sông Vu Gia mà lại chuyển nước ra khỏi lưu vực sông Vu Gia về sông Thu Bồn để phát điện? Trao đổi với P.V, ông Dương Chí Công, Giám đốc Sở TN-MT Quảng Nam cho biết: “Trước đây, tổ chức ADB có một dự án nhỏ giúp cho Bộ TN-MT về việc đánh giá môi trường chiến lược hệ thống toàn bộ các công trình thủy điện đã và đang triển khai xây dựng trên các dòng sông Vu Gia và sông Thu Bồn.

Đường ống dài 600m dẫn nước từ hầm xuống nhà máy. 

Sau khi nghiên cứu, khảo sát tổ chức ADB đã đưa ra “cảnh báo” về việc chuyển nước, chuyển dòng chảy từ sông Vu Gia qua sông Thu Bồn của các công trình thủy điện, trong đó có công trình thủy điện ĐăkMi 4 sẽ gây ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng ở hạ lưu sông Vu Gia. Đáng lẽ, sau khi có cảnh báo của ADB, các ngành chức năng liên quan phải thông báo cho chủ đầu tư biết để điều tiết lại dòng chảy nhưng sự cố vẫn xảy ra”.

Từ “cảnh báo” của ADB, sau đó, ngày 10-12-2008, Sở TN-MT tỉnh đã tổ chức hội thảo “Bảo tồn đa dạng sinh học và giá trị văn hóa của dòng sông nguyên vẹn” để triển khai tiếp về việc đánh giá môi trường chiến lược sau dự án khảo sát đánh giá của ADB. Kết luận tại hội thảo này nêu rõ: “Sự cần thiết phải duy trì dòng sông nguyên vẹn, cộng đồng sẽ hưởng lợi gì từ việc duy trì dòng sông nguyên vẹn. Việc phát triển thủy điện ở lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn hiện nay đang quá nóng. Do đó, cần phải xem xét đánh giá các tác động môi trường và xã hội. Nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Hải đã có kết luận về việc cần thiết phải duy trì dòng sông nguyên vẹn”.

Ông Dương Chí Công phân tích, khi chuyển dòng chảy từ sông Vu Gia sang sông Thu Bồn của thủy điện ĐăkMi 4 thì nguy cơ nhiễm mặn sẽ rất trầm trọng, cao hơn trước đây. Quảng Nam sẽ là địa phương bị ảnh hưởng nhiều nhất, trước tiên là khoảng 10.000ha hoa màu, lúa ở vùng Bắc Điện Bàn, Hội An... Cát, sỏi sẽ không còn, tài nguyên đánh bắt thủy sản sẽ giảm đáng kể. Nước sinh hoạt cho người dân sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cụ thể tính toán cân bằng nước đến năm 2020 với các tần suất thiết kế 75%, 90% và 95% đều cho ra kết quả là tất cả 9 tháng mùa khô (từ tháng 1 đến 9) đều bị thiếu nước nghiêm trọng.

 Trên công trường thủy điện ĐăkMi 4.

Sông Vu Gia-Thu Bồn quá tải thủy điện

Trước đó, ngày 4-4-2008, tỉnh Quảng Nam đã tổ chức “Hội thảo bước tiếp theo về Đánh giá môi trường chiến lược các công trình thủy điện lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn”. Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Nguyễn Đức Hải lúc bấy giờ đã kết luận: “Phát triển thủy điện đang là vấn đề được xã hội đặc biệt quan tâm, do đó Quảng Nam ủng hộ nguyên tắc “thận trọng”, tiếp tục nghiên cứu rõ và cụ thể hơn đối với những dự án chưa đáp ứng các giải pháp tác động môi trường như (đập Đại Cường, thủy điện ĐăkMi 4). Hiện nay tỉnh chưa tính đúng, tính đủ giá trị của việc đầu tư thủy điện, chính sách điều tiết tài nguyên lại chưa rõ ràng, nên các nghiên cứu này cần được cụ thể hóa bằng thể chế chính sách nhằm tạo sự bình đẳng trong đầu tư thủy điện trên địa bàn nhằm tránh sự phát triển quá nóng của thủy điện hiện nay”.

Ông Nguyễn Đức Hải cũng đề nghị, trong phát triển thủy điện cần quan tâm đến hướng bảo vệ môi trường sinh thái và “điều chỉnh để hạn chế rủi ro trên toàn bộ lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn”. Cần làm rõ hơn đối với các vấn đề về tái định cư, dân tộc thiểu số, nguồn nước, mất rừng, đa dạng sinh học, quản lý vốn... Đề nghị các nhà đầu tư phát triển thủy điện cần quan tâm về vấn đề xung đột mâu thuẫn giữa các bên liên quan, tránh tình trạng gây áp lực xã hội, môi trường do đầu tư phát triển thủy điện đối với chính quyền các cấp.

Sông Vu Gia bắt nguồn từ Kon Tum, chảy qua Quảng Nam và Đà Nẵng rồi đổ ra biển Đông tại vịnh Đà Nẵng. Nghị định 120/CP về quản lý lưu vực của Chính phủ quy định lưu vực sông Vu Gia thuộc danh mục lưu vực sông lớn của Việt Nam. Dòng sông này là nguồn nước chính cho sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ của vùng hạ lưu bao gồm huyện Đại Lộc, Điện Bàn (Quảng Nam) và TP Đà Nẵng. Sông Vu Gia gồm 3 nhánh sông chính là sông Boung (có thủy điện A Vương 1, sông Boung 2, sông Boung 4, sông Boung 5), sông Côn (có thủy điện Sông Côn 2) và sông Cái (còn gọi là sông ĐăkMi, có thủy điện ĐăkMi 1 và ĐăkMi 4). Trong đó, sông ĐăkMi là sông quan trọng nhất, tuy chỉ chiếm 36% diện tích lưu vực nhưng là nguồn nước chính của sông Vu Gia, cung cấp đến 50% tổng lượng nước.

Đặc biệt, tại Công văn 1533 ngày 11-10-2005, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu IDICO, chủ đầu tư dự án thủy điện ĐăkMi 4, phải “tiếp thu ý kiến của Bộ Công nghiệp và các bộ, ngành, địa phương liên quan”. Thế nhưng IDICO lại không tham khảo ý kiến của TP Đà Nẵng là “hộ” dùng nước chính của sông Vu Gia trước khi phê duyệt dự án. Mặc dù báo cáo cân bằng nước đã khẳng định và kiến nghị như trên nhưng đơn vị tư vấn vẫn lập quy hoạch bậc thang thủy điện sông Vu Gia -Thu Bồn. Tại báo cáo tóm tắt phân tích, đánh giá cấp nước hạ du hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn thì IDICO nhận xét và đánh giá: “Trong điều kiện tự nhiên, khi không xây dựng các công trình thủy điện, lượng nước thiếu hụt ở hạ lưu sông Vu Gia – Thu Bồn cũng đã rất trầm trọng, đặc biệt đối với khu vực hạ lưu Thu Bồn”.

 Theo quy hoạch được duyệt, tỉnh Quảng Nam có tới 57 nhà máy thủy điện nằm khắp các huyện miền núi. Trong đó, có các công trình thủy điện như Sông Boung 2 (100MW), sông Boung 4 (220 MW), sông Giằng (60 MW), ĐăkMi 1 (255 MW), sông Côn 2 (60 MW), sông Tranh 2 (135 MW)...

Trao đổi với P.V, lãnh đạo Hội Liên hiệp Khoa học kỹ thuật tỉnh Quảng Nam cho biết, hồ sơ dự án thủy điện ĐăkMi 4 không thấy chuyển qua bên hội và hội cũng không được tham gia phản biện tập thể. Những dự án thủy điện lớn như thế này phía hội rất muốn tham gia phản biện nhưng không được.

Bài, ảnh: Trương Tam